Lịch sử Độ kiềm của nước

Năm 1884, Giáo sư Wilhelm (William) Dittmar thuộc Đại học Anderson, nay là Đại học Strathclyde, đã tiến hành phân tích 77 mẫu nước biển từ khắp nơi trên thế giới do đoàn thám hiểm Challenger mang về. Ông đã phát hiện ra rằng trong nước biển, các ion chính luôn tồn tại ở một tỷ lệ xác định, là 1 bằng chứng quan trọng để xác nhận giả thuyết của Johan Georg Forchhammer mà ngày nay được biết đến là Định luật thành phần không đổi. Tuy nhiên, Dittmar cũng đã phát hiện ra 1 ngoại lệ cho định luật này, ông nhận thấy rằng nồng độ canxi cao hơn một chút ở các mẫu thu thập từ những nơi sâu hơn ở đại dương và chỉ rõ sự gia tăng độ kiềm này.

Năm 1884 cũng là năm mà Svante Arrhenius đệ trình luận án tiến sĩ, trong đó ông đưa ra quan điểm về sự tồn tại của các ion trong dung dịch. Ông cũng đưa ý kiến về các định nghĩa như các axit thì có khả năng phân ly trong nước cho ra ion Hydro (H+) còn các bazơ thì phân ly cho ra ion hiđroxit (OH-). Nhờ vào nghiên cứu này, ông đã nhận được giải thưởng Nobel về hóa học vào năm 1903.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Độ kiềm của nước http://www.advancedaquarist.com/2002/2/chemistry //edwardbetts.com/find_link?q=%C4%90%E1%BB%99_ki%E... http://iridl.ldeo.columbia.edu/SOURCES/.GEOSECS/ http://www.soest.hawaii.edu/oceanography/faculty/z... http://www.obs-vlfr.fr/~gattuso/seacarb.php http://water.epa.gov/type/rsl/monitoring/vms510.cf... http://www.pmel.noaa.gov/co2/story/CARINA http://cdiac.ornl.gov/oceans/co2rprt.html http://cdiac.esd.ornl.gov/oceans/handbook.html //dx.doi.org/10.1016%2F0304-4203(92)90047-E